Chơi Vơi
by Hồ Khánh Vân
Chơi vơi không thuần là một câu chuyện được kể lại, cũng không thuần là một bài thơ bằng điện ảnh với những đường nét, âm điệu trữ tình dịu nhẹ. Phối quyện giữa một ít chất truyện và chất thơ, Chơi vơi như một tự sự của tâm trạng con người. (Images: Hang Phim 1)
Chính vì vậy, ở đây có tình huống, không chỉ một mà nhiều tình huống sinh ra từ các biến cố: cuộc hôn nhân không tình dục khác thường của đôi vợ chồng mới cưới, cuộc gặp đầu tiên đầy bản năng nhục dục của Duyên và Thổ, mối quan hệ đan chéo và nhiều giằng xé giữa Cầm, Duyên, Thổ và Vy, cái chết bi thảm của người đàn bà yêu đắm đuối trong một cuộc tình đơn phương, cuộc ngoại tình của người vợ trẻ, sự mâu thuẫn giữa người bố bê tha rượu chè, mê chọi gà và cô con gái đang tuổi mới lớn…
Đặt ra các tình huống, nhưng bộ phim không đi sâu vào khai thác kịch tính của tình huống để tạo nên các tình tiết éo le, hấp dẫn, để đẩy tình huống lên đến cao trào. Chơi vơi có chuyện, nhưng không có cốt truyện. Khán giả không thể chờ đợi ở bộ phim này sự gay cấn của sự kiện trong mỗi tình huống. Câu chuyện phim cũng như câu chuyện trong cuộc sống của mỗi người, không phải bao giờ cũng có cốt truyện, cũng đầy biến cố. Con người đi qua một chuỗi thời gian đời sống, nhiều khi không sở hữu một câu chuyện, nhưng bao giờ cũng mang những tâm trạng, những nỗi niềm riêng tư thường trực, thường ngày. Đứng trên lãnh địa của những tình huống kịch tính, Chơi vơi khơi mở thế giới xúc cảm được ẩn chứa một cách tràn trề nhưng vô cùng sâu thẳm trong không gian tinh thần của cá nhân con người.
Thế giới con người riêng tư: chơi vơi trong chính mình Con người tâm điểm của Chơi vơi là con người trẻ, hay nói khác đi, chơi vơi là thuộc tính, là trạng thái cố hữu của từng con người trẻ đang tồn tại, đang thở, đang yêu, đang xúc cảm và tìm kiếm chính mình qua từng khoảnh khắc đời sống. Chơi vơi không chỉ là cảm xúc, mà còn là bản thể của con người trẻ. Chính vì họ trẻ, nên họ chơi vơi. Không ai có thể đứng yên, neo đậu vững chãi vào bất cứ một cái mốc yên định, bất di dịch nào: niềm tin, tình yêu, lý tưởng sống và cả bản thể của chính họ. Tất cả ở trong trạng thái bập bềnh, trôi nổi, không phương hướng, không hình hài mà các nhân vật đều đứng trên cái ngưỡng không thể nhận biết cũng như không thể vươn chạm đến được.
Mỗi nhân vật là một thế giới bất định và bất ổn, đầy mâu thuẫn. Mỗi nhân vật xuất hiện trong Chơi vơi đều mang theo một chữ “nhưng” của những mâu thuẫn, những đối lập trong bản thân mình. Đứa con gái bị điếc của Vy lại thích chơi trò chơi với chiếc chuông lắc, chơi trò chơi với âm thanh, vốn là cái thuộc về hiện thực mà đưá trẻ này không thể cảm nhận được. Hải, anh chồng trẻ, chứa đựng trong hình hài người đàn ông trưởng thành của mình một tâm hồn và tính cách trẻ thơ trong suốt. Anh mãi là một thằng bé cần bàn tay nâng niu, bảo bọc của một người mẹ quá yêu con. Thế giới đầy quyến dụ của cờ bạc, đàn bà không thúc dậy trong anh một nỗi khát thèm nào, kể cả nỗi khát thèm nhục dục rất bình thường với người vợ mới cưới. Những giấc ngủ sâu đắm có thể kéo đến triền miên, cốc sữa tươi, trò chơi đá banh trên phố, trong cơn mưa… đã lưu giữ lại trọn vẹn trong Hải một đứa trẻ không bao giờ lớn dậy.
Giữa thế giới bài bạc và thế giới của trò chơi đá banh trên phố, Hải đã chọn thế giới trò chơi trẻ con. Đứa trẻ ấy ở cái tuổi ngoài đôi mươi vẫn hồn nhiên hăm hở trèo cây để khoèo tìm quả bóng, vẫn có thể nhanh chóng bỏ ý định về nhà ăn cơm với vợ chỉ vì nồi canh chua người mẹ nấu chìu theo ý thích của anh, vẫn vừa tò mò thích ngủ một mình lại vừa sợ ma… Thế giới bên trong của Hải chỉ mở ra khi anh ở bên cạnh những đứa trẻ, ban đầu là đám trẻ chơi đá bóng trong mưa và sau đấy là cô bé Miên. Hải gần như lạc nhịp với thế giới đáng lẽ anh phải thuộc về, phải ở trong nó. Người chồng này là cả một nút thắt vừa kì bí, vừa thuần khiết mà Duyên mãi mãi không thể tháo gỡ ra nổi, là một sự đần độn kì dị mà người khách thạo thói ăn chơi thường xuyên đi trên chiếc taxi của Hải mãi dè bỉu và phủ định.
Bên cạnh đó, thế giới người đàn bà trong Cầm là cả một tấm lưới chằng chéo các mối nút của xúc cảm. Cầm vừa đau rã rượi khi thấy mình đánh mất một sự gần gũi, thân thuộc, thậm chí là một sự sở hữu lúc Duyên đi lấy chồng, vừa chấp nhận và vun vén hạnh phúc của cô bạn bằng món quà cưới quý giá, quý giá ngang bằng sự hy sinh – tấm áo cưới mà người mẹ già nua của chị cặm cụi thêu suốt cả năm trời là niềm thiêng liêng của tình mẫu tử, là nỗi mong ước của người mẹ về hạnh phúc của đưá con. Cầm mang một tình yêu vừa rạo rực, đam mê, vừa khoác vẻ lạnh lùng, tỉnh táo khi biết cùng với tiếng gõ cửa đang vang lên, một người đàn bà khác sẽ đến với Thổ.
Cô vừa nôn nao tìm kiếm, lại vừa từ chối, dứt bỏ người đàn ông mình yêu. Đẩy Duyên về phía Thổ và hiểu rằng họ là tình yêu trọn vẹn, đúng nghĩa của nhau, nhân vật nhà văn nữ này đau ray rứt, nghẹn ngào vào lúc 3 giờ sáng, trong cuộc nói chuyện qua điện thoại với Duyên, trong những âm thanh hổn hển tiếng thở của cô gái trẻ lần đầu biết đến những xúc cảm của thể xác. Ghen tuông, yêu đương, hờn giận, chối bỏ, níu kéo… những trạng thái phức tạp cùng hiện hữu trong Cầm nhưng không một cảm xúc nào sắc nét, rõ rệt. Những xúc cảm ấy không thoáng nhẹ nhưng mơ hồ, mông lung, không gào thét, dữ dội, quyết liệt nhưng quặn thắt, khắc khoải và ám ảnh. Cầm là nhân vật “biết” nhiều nhất về thế giới xung quanh mình, về những con người hiện hữu với mình trong cùng một không gian đời sống. Cầm biết Duyên không hạnh phúc, biết Thổ không yêu mình, biết Duyên là cô gái mà Thổ sẽ yêu trọn vẹn… Nhưng chính thế giới tinh thần của cô là thế giới phức tạp, đa đoan, sâu thẳm và tăm tối nhất, một thế giới bất khả tri của những chiều kích, những mối dây xúc cảm đan xen, chằng chéo, vừa hòa lẫn trong nhau, vừa giằng xé, mâu thuẫn với nhau.
Thổ và Vy là hai con người có nhiều cuộc yêu đương thể xác gần như buông thả, vội vã và hoang dại, còn tình yêu đích thực lại là cả một cuộc rượt đuổi đầy khao khát với họ. Hai nhân vật này mang đậm tính cách nổi loạn, sự lạnh lùng bất hòa với đời sống, khoác giữ trạng thái phớt đời trong dung mạo, cách hành xử và cả trong ngôn ngữ. Đối với Thổ, những người đàn bà và nhục cảm là những vật sở hữu nằm trong lãnh địa của anh. Anh chinh phục, chiếm lĩnh và chế ngự họ bằng sự lạnh lùng, quả quyết và dữ dội tràn trề nam tính.
Anh là người đàn ông đầu tiên đánh thức những khao khát nhục cảm, những cảm nghiệm thể xác trong Duyên. Còn với Vy, đằng sau những cuộc say sưa, cười cợt vô nghĩa với đám đàn ông xa lạ, điều lớn lao nhất bám riết dai dẳng trong cô là tình yêu cuồng nhiệt, mê đắm, cuống quýt dành cho Thổ. Biết mình yêu trong tuyệt vọng, yêu mà không được đáp trả nhưng Vy vẫn đeo đuổi, tận dâng tận hiến suốt 6 năm trời đằng đẵng. Và nghiệt ngã nhất, trong cùng một khuôn hình, cuộc say lơi lả của Vy cạnh người khách nước ngoài được đặt đối diện với sự gần gụi nồng nàn, ấm áp giữa Duyên và Thổ trên bãi biển. Nỗi đau lớn nhất của người đàn bà không phải là sự nhận biết mình không được yêu mà là trạng thái đối diện với sự thật rằng người đàn ông mình yêu đang yêu một người đàn bà khác.
Vy tìm đến cái chết hay cái chết tìm đến Vy, một cuộc tự tử hay một tai nạn trong cơn say, tất cả những lấp lửng của nguyên do đều cùng sinh ra từ một nguyên cớ duy nhất là nỗi chơi vơi của một tình yêu đơn lẻ tuyệt vọng. Đó mới chính là cái chết của Vy, cái chết không cần một cuộc khám nghiệm tử thi đã khiến người đàn ông trong Thổ lặng đi tê tái. Thổ nắm giữ những người đàn bà và xúc cảm của họ, nhưng dường như, thế giới của anh vẫn luôn trống rỗng, rã rượi và tình yêu là một điều gì đó gắn vào anh một cách lỏng lẻo. Riết róng, dữ dội, mạnh mẽ và dị biệt, Thổ và Vy như hai vệt màu lạ, đậm đặc cá tính, bí ẩn và cuốn hút, vừa nóng rẫy, vừa lạnh lẽo, vừa khát khao đời sống, vừa phủ định đời sống, dung chứa những đối cực trong trạng thái tột đỉnh.
Trong thế giới nhân vật ấy, Duyên là người duy nhất có sự dịch chuyển rõ rệt, lớn lao về trạng thái và sự cảm nghiệm đời sống. Hải, Cầm, Thổ, Vy mang nỗi chơi vơi định sẵn trong bản nguyên của chính mình giữa dung môi bập bềnh, sóng sánh các mâu thuẫn nhiều nghi vấn và phủ định. Thậm chí, mâu thuẫn có vẻ hồn nhiên, bình phẳng, ít có biểu hiện giằng xé nhất giữa thể xác đàn ông và tâm hồn đứa trẻ trong Hải lại là sự mâu thuẫn mang nhiều bi kịch nhất, có khả năng gây ra nhiều bi kịch nhất. Ban đầu, Duyên xuất hiện bằng lẽ sống của cái đơn giản. Duyên nương vào đấy như một sự yên ổn để đến với cuộc hôn nhân chỉ sau 3 tháng quen biết Hải, để vẫn mỉm cười sau đêm tân hôn bất bình thường, để đối nghịch với thế giới phức tạp, bất ổn và bí ẩn của Cầm.
Sự thăng bằng của thế giới tinh thần trong Duyên được định vị bằng quan niệm sống đơn giản, quan niệm biết chấp nhận vô cùng ôn hoà và nhu thuận với thế giới. Đối với cô, câu chuyện đời cần phải rõ ràng, cần phải biết được nên khi phát hiện ra những bức hình cũ của ông mình và người tình cùng quyển nhật ký, Duyên mải miết đi tìm những bí mật bị giấu kín, đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi của cô. Nhưng Duyên cũng sẽ mãi loay hoay giữa thế giới của những người đã thuộc về quá khứ. Họ từng sống cuộc đời chơi vơi của những tình yêu không trọn vẹn, những cuộc hôn nhân “quá sức” và những điều ‘không cần phải biết” vì ‘biết để làm gì”. Cho đến khi, theo hành trình sống của riêng mình, Duyên cũng rơi vào quy luật chơi vơi muôn thuở của những điều không thể rõ ràng, không thể tri nhận và không thể thoát ra nổi: cuộc hôn nhân với Hải, tình yêu với Thổ, chung thủy và ngoại tình, kìm nén và bung vỡ xúc cảm, tận hưởng những xúc cảm vốn thuộc về con người…
Những trạng thái cân bằng bị phá vỡ dần khi đêm tân hôn không nhục cảm cứ kéo dài trong cuộc sống vợ chồng của Duyên và Hải, khi Thổ xuất hiện một cách mạnh mẽ, bạo liệt và khiến thế giới xúc cảm trong cô dâu trinh trắng này bừng nở. Duyên hoang mang với một con người khác đang bị đánh thức ở trong mình. Cô run rẩy trước Thổ và trước những ý nghĩ dày vò về một cuộc tình ngoài hôn nhân. Cầm là không gian tự thú, cũng là không gian tự bộc lộ của Duyên. Ở đấy, Duyên được sống thực với chính mình. Định đề về lẽ sống giản đơn của Duyên hoàn toàn phá sản. Càng đến những thước phim cuối, nỗi chơi vơi trong cô càng tràn ra với trạng thái tâm trạng phân đôi đầy băn khoăn, giằng xé. Duyên từng trải hơn, hiểu cơ thể mình, cảm nhận những cảm giác xác thịt rất con người trong mình bằng nỗi hân hoan nhân bản nhưng cũng nôn nao mặc cảm tội lỗi với người chồng chưa từng một lần ái ân của mình. Duyên vẫn tìm đến với Thổ bằng nỗi khát khao, nỗi đam mê run rẩy và vẫn đặt một bàn tay lên đôi vai người chồng khi họ ngồi trên chiếc xe, trôi chầm chậm giữa không gian ngập nước và trở về nhà.
Câu chuyện của Duyên bị bỏ lửng, cũng như câu chuyện của ông bà Duyên từng bị bỏ lửng trong quá khứ và chính Duyên cũng không thể tìm kiếm nổi. Trong quy luật nghiệt ngã của cuộc sống, không phải bao giờ con người chúng ta cũng có thể lý giải và thấu tỏ được tất cả mọi chuyện diễn ra xung quanh mình. Không phải bao giờ con người cũng trả lời cho những câu hỏi tại sao, do đâu và như thế nào một cách rõ ràng, minh bạch. Tất cả điều vướng vào một nỗi đa đoan không định hình, bất ổn. Bởi lẽ đó là hiện thực, là quy luật, định mệnh của đời sống này. Bởi lẽ, thực ra, con người luôn mắc míu giữa bao xúc cảm, bao nỗi tréo ngoe của đời sống mà không thể lý giải nổi, tháo gỡ nổi. Bởi lẽ, chơi vơi là một bản chất sống thường trực trong tâm trạng mỗi con người, đặc biệt là những con người trẻ không thể neo đậu mình vào bất cứ một điểm cố định nào một khi họ còn loay hoay đi tìm chính mình, mở chính mình ra để sống một cách con người nhất, sống thực với chính mình nhất.
Sự va chạm giữa các nhân vật: chơi vơi trong nhau
Sự phức tạp đầy tinh tế của trạng thái chơi vơi không chỉ được thể hiện trong từng nhân vật mà còn được xây dựng trong mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau. Đấy là một chuỗi những quan hệ đan cài, chồng chéo qua nhau. Mỗi nhân vật đều nắm giữ nhiều mối dây quan hệ với các nhân vật khác. Đấy là mối quan hệ giữa Cầm với Duyên và Thổ, giữa Duyên với Thổ và Hải, giữa Vy với Thổ và Duyên, giữa Hải với người mẹ, Duyên và Miên.
Những nhân vật va chạm nhau nhưng không đối đầu trực tiếp với nhau, xung đột nhau nhưng không xung khắc trực diện. Đạo diễn không đặt họ vào cùng một không gian, một thời điểm để gây ra kịch tính của tình huống mà chuyển hướng khai thác kịch tính ẩn ngầm bên trong các nhân vật. Ngay cả khi để Duyên và Vy bên cạnh nhau, giữa họ cũng không có sự giằng co, tranh chấp hạnh phúc theo kiểu thông thường của cuộc tình tay ba. Mỗi nhân vật giữ một thế giới xúc cảm riêng tinh tế, kín đáo và người xem tự soi rọi nhân vật này vào nhân vật kia để khám phá đời sống của mỗi con người cá nhân. Hải và Thổ cũng chưa từng chạm mặt nhau, xung đột trực tiếp với nhau.
Nhưng mối quan hệ với hai người đàn ông ấy là sự giằng xé ghê gớm trong Duyên, vừa là hạnh phúc, vừa là nỗi đau từ thế giới tinh thần sâu thẳm của Duyên. Cầm đau đớn, mất mát, cô đơn khi thấy Duyên ở cạnh người đàn ông khác, nhưng lại chủ động đẩy Duyên về phía Thổ để cùng một lúc tê tái vì cả người bạn gái thân thuộc và người đàn ông mình yêu. Trở về sau chuyến đi, Duyên khiến khán giả hồi hộp theo bước chân nhón nhẹ của cô đến phòng tắm đang vọng ra âm thanh và mong chờ một biến cố. Nhưng rồi, khi Duyên vén màn và phát hiện ra cô bé Miên đang tắm trong bồn nước nhà mình, cảnh quay bị cắt và giữa hai nhân vật không xảy ra bất kì một xung đột nào. Miên lại trở về với chiếc bồn tái chế thô sơ, chật chội với những ước mơ nhỏ bé nhưng chơi vơi, không vươn chạm đến được của một cô gái đang tuổi dậy thì.
Cảm giác của các nhân vật trong khi quan hệ, tương tác với nhau cũng là một cảm giác chơi vơi, lưng chừng, mơ hồ, không rõ rệt theo một tính chất, một sắc độ, một cung bậc nào. Mối quan hệ giữa Duyên và Cầm mang đến một tình cảm gắn bó, sẻ chia, khắng khít vừa kỳ lạ, vừa rất đời thường với những vị kỉ chiếm giữ riêng, những san sớt riêng của hai người bạn gái. Giữa họ là một dạng thức yêu thương con người mang đậm tính nữ chứ không thuần là câu chuyện đồng tính quá rõ ràng để gây sốc trong bộ phim. Mối quan hệ giữa Thổ và những người đàn bà đan xen nhiều trạng thái, u uất, luẩn quẩn, đam mê, vừa tinh thần vừa xác thịt, lại nồng nàn, vừa như yêu, vừa như không phải là yêu. Mối quan hệ vợ chồng giữa Duyên và Hải chỉ rõ rệt ở cái đám cưới, còn lại đều là sự mơ hồ, pha lẫn tình yêu và tình thương, pha lẫn cảm giác lứa đôi với cảm giác yêu thương của một người mẹ, một người chị mà Duyên dành cho Hải khi thấy anh đơn sơ, tinh khiết như một đứa trẻ. Giữa họ vẫn luôn có một khoảng cách ngoài vợ chồng mà Duyên không thể bước qua.
Đêm tân hôn, Duyên giữ chiếc áo cưới đã mở sẵn dây kéo như một sự chờ đợi nhưng đành ngậm ngùi trước cơn say và giấc ngủ của Hải. Khi ở trên xe taxi, chỉ có hai người với nhau nhưng sự ý nhị của những điều thầm kín vẫn buộc Duyên phải nói thầm vào tai Hải và giữa hai người vẫn là một khoảng cách cần phải giữ. Lúc cùng đứng ở bàn thờ cầu nguyện, Duyên khẽ nghiêng người rồi rón rén đi ra phía sau, áp vào lưng người chồng để lắng nghe lời cầu khấn quá dài của anh. Thế giới của Hải luôn bị phong kín và Duyên ngỡ ngàng không thể hiểu được, dù đó là một thế giới thuần khiết trẻ thơ. Duyên và Hải bị lỗi nhịp với nhau.
Duyên khao khát bước vào thế giới của người lớn, của những giao cảm thể xác nhưng Hải vẫn còn đứng nguyên trong thế giới con trẻ. Suy cho cùng, khi tạo lập mối quan hệ giữa các nhân vật để chạm nhân vật này vào nhân vật kia, tâm điểm của bộ phim vẫn là đời sống bên trong của từng nhân vật, của mỗi một nhân vật. Vì vậy, mỗi nhân vật là một điểm nhấn trọn vẹn, đặc sắc, không nhân vật nào lẫn vào nhân vật nào từ hình hài cho đến thế giới nội tâm, thế giới tinh thần. Mỗi nhân vật là một nét kỳ lạ riêng, một thương hiệu riêng trong hành trình Chơi vơi. Câu chuyện tình yêu, tình dục được khai thác và khắc hoạ ở những góc cạnh riêng tư, riêng biệt nhất của mỗi một con người. Cái thế giới vốn bị phong toả, giấu kín và kìm nén trong xã hội truyền thống phương Đông được bung bật ra một cách mạnh mẽ và tinh tế, thể hiện sâu sắc nhất ở tình huống của Duyên, câu chuyện của Duyên. Cô cần được biết về chính mình bằng sự khám phá những rung động của xúc cảm riêng tư mà chỉ có cơ thể cô thức dậy được.
Trước khi là đại diện cho con người nào đấy, là hiện thân cho một ý nghĩa nào đấy, nhân vật trong Chơi vơi phải là chính mình, là con người cá nhân riêng tư không lặp lại với những câu chuyện riêng tư.
Thế giới Chơi vơi của các yếu tố nghệ thuật
Bối cảnh
Đa phần các thước phim được tạo dựng trên một âm điệu trầm, lắng và chuyển động nhẹ. Về mặt bối cảnh, Chơi vơi khai thác và gợi ra không khí của Hà Nội với những mảng không gian đặc trưng. Căn nhà của mẹ Hải là một không gian nhỏ chật chội, cũ kĩ với những mảng tường gạch dọc theo một lối đi sâu cùng sự hiện diện của một gia đình đông con và những đứa lớn, đứa bé cứ thay nhau đi qua đi lại. Không gian đẫm chất nghệ thuật tinh tế, vừa quý phái cổ xưa, vừa tao nhã, thanh thoát của một nữ văn sĩ, của một gia đình theo nghề thêu truyền thống tạo ra một tiết điệu riêng từ thế giới của Cầm. Hàng bún đầu ngõ, dọc theo vỉa hè với búi hành và chùm ớt đỏ của bà nội Duyên cũng là một nét phong vị rất Hà Nội. Bối cảnh này vừa có nét gần gũi với Mùa hè chiều thẳng đứng của Trần Anh Hùng khi tái hiện lại một không gian Hà Nội trầm lắng, chậm rãi, nhẹ nhàng, điển nhã và cổ xưa, nhưng lại vừa riêng biệt, khác lạ. Ở Mùa hè chiều thẳng đứng, Hà Nội cũng là một nhân vật chính và được khai thác nhiều ở đời sống phong tục, tập quán truyền thống. Còn với Chơi vơi, Hà Nội hiện lên với một đời sống ngày thường đan xen nhiều mảng không gian xưa cũ và hiện đại, gắn với những con người trẻ sống động và hiện thực.
Bên cạnh đó, bối cảnh còn là không gian đời sống tinh thần của các nhân vật, bộc lộ thế giới bên trong của nhân vật. Căn phòng của Hải và Duyên hiện ra đơn sơ, gần như không có nhiều đạo cụ và chiếc giường ngủ to, đặt ngay chính giữa trở thành không gian trung tâm. Chiếc giường gợi ra đời sống vợ chồng của Duyên và Hải, là nơi Duyên chờ đợi những va chạm thể xác theo lẽ thường với người chồng, là nơi chứa đựng và bộc lộ những ẩn ức tính dục trong Duyên. Căn phòng tối cùng ánh đèn vàng thẫm với những bài hát hoà phối theo phong cách hiện đại và truyền thống thể hiện một thế giới riêng, biệt lập, hoang dại và u uẩn của Thổ. Sự tương tác giữa nhân vật và không gian được chăm chút một cách kĩ lưỡng, đầy ấn tượng trong Chơi vơi và chính không gian bối cảnh đã dự phần vào việc tạo ra cảm xúc của bộ phim.
Không gian tối gắn với nội cảnh xuất hiện nhiều, tạo thành gam màu trầm cho bộ phim. Trong khi đó, không gian ngoại cảnh lại mang màu sắc dịu nhẹ, trong trẻo, đằm thắm chứ không rực rỡ. Phong cách và sắc độ ấy khiến cho bối cảnh lúc nào cũng mang một dáng vẻ phẳng lặng, tĩnh và êm đềm làm nền cho sự trôi nổi, phiêu giạt của thế giới xúc cảm trong nhân vật.
Ánh sáng
Ánh sáng tương phản được sử dụng nhiều, đặc biệt ở những cảnh nội. Trong căn phòng của Cầm và Thổ bao giờ bóng tối cũng chiếm lĩnh phần lớn và những mảng sáng màu vàng đậm tạo ra từ ngọn đèn khắc tạc nên sự tương phản sáng – tối rõ rệt. Trong không gian đó, gương mặt nhân vật cũng được phân đôi sáng – tối, soi rọi chính thế giới tâm trạng đang phân chia chênh chao, không nơi bám víu, không định hình và đan xen nhiều cung bật xúc cảm. Trong cảnh quay Duyên và Cầm đứng bên cửa sổ đọc nhật ký, gương mặt mỗi nhân vật đều phân đôi nửa sáng nửa tối, tạo nên một bố cục cân xứng về tạo hình và ánh sáng đầy gợi cảm. Khi Duyên và Cầm ngồi trên ghế trong cảnh quay gần cuối và Duyên thổ lộ những cảm xúc của mình cho người bạn gái, gương mặt và cơ thể cô được chiếu sáng trong ánh đèn vàng, trong khi đó, Cầm gần như lẫn vào bóng tối. Khuôn hình được cắt đôi với hai mảng sáng tối phân lập của một cuộc tâm tình, một cuộc tự thú sau khi người đàn bà trong Duyên đã đi qua những trải nghiệm đời sống mới mẻ.
Đồng thời, ánh sáng đi vào khuôn hình luôn là những ánh sáng bị phân cắt. Đó là những luồng sáng vàng, những mảng, những mảnh sáng vàng của nắng, của ánh đèn chứ không bao giờ là một thứ ánh sáng nguyên khối, trọn vẹn. Màu vàng thẫm, đậm, trầm và nóng được đặt vào không gian tối tạo nên một thế giới u huyền, trầm mặc bủa vây quanh tâm trạng nhân vật. Ánh sáng trắng xanh nguyên khối luôn là ánh sáng ở bên ngoài, nằm ngoài không gian căn phòng. Đấy là ánh sáng của khung cửa sổ trong cơn mưa phía trên chiếc cầu thang dẫn vào nhà Thổ, ánh sáng ở khung cửa sổ phòng Cầm, ánh sáng ở khung cửa phòng khám nghiệm tử thi.. Những mảng sáng vuông vức, được đóng khuôn cắt đi một phần bóng tối, tạo ra sự đối lập ánh sáng của khuôn hình và nhấn mạnh, tô đậm thêm gam màu tối của không gian bên trong – không gian bối cảnh cũng như không gian tinh thần của con người. Ngoài ra, việc tạo sáng tinh tế đem lại những khuôn hình đẹp, đầy rung cảm. Ánh sáng ven vàng đượm trên cánh tay Cầm khi cô ngồi trên bàn viết, ánh sáng làm nổi rõ đường nét cong của đôi chân khi Duyên ngồi gội tóc cho Cầm, ánh sáng ven trên khuôn mặt Duyên trong đêm ái ân với Thổ…
Vẻ đẹp tinh tế đến nghẹt thở của khuôn hình thực sự mang lại những mỹ cảm thị giác đầy ấn tượng, vừa tự nhiên, giản dị, lại vừa mang đậm tính xếp đặt tạo hình.
Bố cục khuôn hình
Trong Chơi vơi, hình ảnh mang tính nghệ thuật cao, đem lại một sự thưởng lãm thị giác đầy thú vị về bối cảnh, màu sắc, ánh sáng và bố cục. Nhiều khuôn hình như một bức tranh tĩnh, giàu sức gợi và đầy ấn tượng. Cảnh quay Cầm ngồi trong căn phòng của Thổ được xếp đặt theo bố cục lệch. Nhân vật ngồi ở phần bên trái khuôn hình, sau lưng và bên cạnh là không gian căn phòng chập choạng sáng tối thể hiện những trạng thái cảm xúc đối nghịch đang va chạm trong Cầm khi cô ở bên cạnh người mình yêu. Trong khi đó, những khuôn hình quay cảnh Duyên và Cầm ở bên nhau lại thường được tạo theo cấu trúc cân xứng: những cảnh quay bên nồi lá xông, bên bậu cửa sổ và trên hai chiếc ghế giữa căn phòng.
Sự cân xứng của bố cục khuôn hình ứng khớp với mối quan hệ nhiều sẻ chia, bộc bạch giữa hai người đàn bà. Họ là hai phần khác biệt của nhau, là hai nửa của nhau, luôn luôn cần có nhau: trong trẻo và giản đơn, từng trải và phức tạp, để rồi từ đó, Cầm đưa Duyên đi vào thế giới phá vỡ những ẩn ức giấu kín, thế giới mà thực ra, chính Duyên muốn bước vào, muốn trải nghiệm và cảm nghiệm.
Nghệ thuật lấy cảnh quay
Xuyên suốt những thước phim, các khuôn hình trung cận cảnh và cận cảnh chiếm đa phần. Gương mặt và thân thể nhân vật nổi rõ, thể hiện và in dấu những trạng thái, những chuyển biến xúc cảm đầy tinh tế trên nền bối cảnh. Thêm vào đó, hầu hết các cảnh quay đều được xử lý theo hình thức mờ nhoè phần hậu cảnh của bối cảnh. Sự mờ nhoè khi đặt hậu cảnh ra ngoài tiêu cự của ống kính ấy đã tạo nên một bối cảnh mờ ảo, nhoè lẫn xung quanh nhân vật, tạo nên một phông nền hoà quyện với thế giới tâm trạng chơi vơi càng lúc càng đậm đặc, dâng tràn của nhân vật. Đồng thời, bối cảnh mờ nhoè khiến cho hình ảnh nhân vật trở thành tâm điểm của khuôn hình, thu hút sự tập trung của thị giác người xem để cảm nhận và thấu thị đời sống cảm xúc của nhân vật. Đôi khi, tiêu cự của ống kính dự phần sâu sắc vào việc thể hiện trạng thái tinh thần của nhân vật và trở nên đặc biệt ấn tượng trong cảnh Duyên trò chuyện với Cầm, khuyên Cầm nên bỏ cuộc hẹn và cô sẽ mang lá thư đi thay Cầm. Các nhân vật không thay đổi vị trí, nhưng tiêu cự ống kính dịch chuyển liên tục, khiến cho Duyên mờ nhoè rồi hiện rõ rồi lại mờ nhoè phiá sau lưng Cầm. Và lúc này, gương mặt Cầm nổi lên với nỗi bức bối, dồn nén, vừa phân vân, vừa quyết liệt và đầy bứt rứt. Ở cảnh quay Cầm ngồi trong tấm chăn phủ, bên nồi lá xông, tiêu cự cũng được xử lý tinh tế.
Gương mặt Cầm nhoè đi rồi hiện rõ khi nghe Duyên kể về người chồng, về niềm hạnh phúc vcủa một đám cưới bộc lộ cơn choáng tinh thần trong nhân vật: đau đớn, thẫn thờ, ghen tuông, mất mát… Tất cả chuyển động trong Cầm một cách tế vi, tất cả cùng hiện hữu nhưng không một cảm xúc nào rõ rệt, sắc nét. Đấy là một thế giới xúc cảm đa chiều, đa cung bậc của một linh thể chơi vơi, bất ổn. Các cảnh toàn gắn liền với ngoại cảnh ít xuất hiện, nhưng thường mang lại một không khí khoáng đãng, nhẹ nhàng, rộng mở đối lập với các cảnh trung cận bên trong bối cảnh căn phòng bức nén, trầm mặc, u uẩn. Khi máy quay chuyển từ cận cảnh con dao mổ dịch chuyển chậm rãi trên thi thể của Vy sang toàn cảnh với góc máy từ trên cao làm hiện lên cảnh đường phố với những dòng người đang dịch chuyển liên tục tạo ra sự đối lập giữa sống – chết, động – tĩnh đầy cảm xúc và sức gợi. Ở không gian này, cuộc sống vẫn tiếp tục chuyển động với muôn mặt người nhưng có một con người đã vĩnh viễn ngưng tồn tại, vĩnh viễn tan biến và chấm dứt.
Nghệ thuật cắt dựng
Các thước phim không cắt dựng theo mạch dọc của một bộ phim có cốt truyện mà theo mạch ngang tái hiện những mảng đời sống của các nhân vật. Đích đến của mỗi mối dựng là mang đến cho người xem sự cảm nhận về thế giới tinh thần, thế giới xúc cảm của nhân vật chứ không phải là diễn biến của tình tiết. Vì vậy, trong bộ phim, không gian hiện rõ hơn thời gian, giàu tính tạo hình và để lại dấu ấn với sự tri nhận của khán giả hơn là ý thức về thời gian. Các nhân vật cũng sống bằng không gian nhiều hơn – không gian của xúc cảm, của những cuộc gặp, những va chạm tinh thần. Khi màn hình chuyển từ cảnh Duyên tắm duới vòi hoa sen sang cảnh cô bé Miên lặn ngụp trong cái bể của mình, ở người xem bất giác nảy sinh một sự liên hệ so sánh đầy ý vị giữa hai nhân vật và cảm nhận được niềm ước ao, sự vui thú của Miên khi được tắm, được ngụp vào làn nước trong bể. Nghệ thuật cắt dựng song song cảnh Hải ăn tối ở nhà mẹ và Duyên ngồi bên bàn tiệc với Thổ, Cầm; cảnh Duyên lên chiếc xe du lịch và Hải chở bé Miên đi chơi; cảnh đoàn khách vui đùa trên vịnh và Hải hồn nhiên, khoan khoái hét toáng giữa hồ nước… đã mở ra một trạng thái chuyển động theo hai chiều ngược nhau giữa đôi vợ chồng: Duyên bắt đầu bước vào thế giới mới mẻ, khác lạ với những trải nghiệm xúc cảm và thể xác của con người trưởng thành còn Hải càng đi vào thế giới trẻ thơ trong trẻo, thuần khiết của mình.
Âm thanh
Hòa vào phong cách tiết tấu, không khí nhẹ nhàng, trầm lắng, chậm rãi của Chơi vơi, âm thanh cũng mang sắc điệu tinh tế, trữ tình. Không một âm thanh ồn ã, náo nhiệt, mạnh mẽ, chói gắt nào xuất hiện trong khuôn hình. Ngay cả ở cảnh quay ngoài đường phố, âm thanh cũng được làm mềm đi bằng tiếng đàn nổi lên xen lẫn. Cầu âm thanh hiện diện nhiều, trải dài trạng thái tâm trạng của nhân vật và từ nhân vật này đến nhân vật kia, dệt thành âm điệu của xúc cảm chơi vơi. Âm thanh tiếng đàn dạo đầu của bài hát Dệt tầm gai vang lên từ cảnh quay Duyên phát hiện những bức ảnh của ông mình đến cảnh cô thuyết minh về các pho tượng cổ trong bảo tàng và đứng xem lại những bức ảnh đó rồi kéo qua cảnh Duyên mặc áo mưa đi trên phố, tay cầm quyển nhật ký. Những chơi vơi trong Duyên khởi nguyên từ đấy, từ nỗi băn khoăn về một quá khứ thầm kín của người ông và tiếng đàn biểu lộ tâm trạng đầy suy tư đang vây lấy cô. Ở phần cuối phim, khúc hát ca trù đi xuyên suốt qua các cảnh quay tái hiện đời sống của từng nhân vật: Hải đang nôn nao đứng chờ vợ ở đầu con ngõ, Miên quay về lặn ngụp trong cái bồn tắm tái chế của mình, Thổ dắt tay con gái Vy đi trên phố, bà nội Duyên tận tụy chăm sóc cho người chồng nằm bất động… Cũng như thế, tiếng chuông điện thoại vang lên từ cảnh quay Duyên nằm sóng sượt trên giường sau giây phút ái ân với Thổ đã đổ sang cảnh quay Cầm ngồi bên bàn viết và nối hai nhân vật với nhau.
Âm thanh ngoài khuôn hình cũng mang lại một dấu ấn tinh tế và khiến thị giác khán giả tập trung vào hình ảnh đang diễn ra trên màn hình để thu nhận những xúc cảm của hình ảnh. Câu đối thoại của Duyên với Cầm về cuộc hôn nhân không hạnh phúc của ông bà nội lại xuất hiện trên khuôn hình người bà đang cặm cụi chăm lo cho người ông và khắc tạc sâu sắc số phận, bi kịch, trạng thái tinh thần của hai nhân vật. Đoạn Duyên và Cầm trò chuyện với nhau trên sân khi Duyên gội đầu cho Cầm, khuôn hình cận cảnh dịch chuyển dần từ bàn chân của Duyên lên đến khuôn mặt rồi sau đó, máy quay mới lùi ra xa để tái hiện toàn cảnh.
Cuộc trò chuyện không giữ vai trò trung tâm mà đối tượng chính của cảnh quay chính là hình ảnh đầy gợi cảm về vẻ đẹp của người phụ nữ. Bàn chân được đặt giữa chậu nước bồ kết, hoa bưởi và những quả chanh bổ đôi tạo nên một khuôn hình đẹp một cách tinh tế, đằm thắm, trong trẻo và giàu giá trị truyền thống. Tiếng thở phập thồng, nức nở, vừa hạnh phúc, vừa tê dại của Duyên đậm đặc trong khuôn hình quay cảnh Cầm và chiếc ống nghe mang đến cùng một lúc cả tâm trạng của hai nhân vật. Cũng như vậy, âm thanh đi tiếng xe taxi từ cảnh quay trước vọng dài và chuyển động chậm qua cảnh quay người mẹ ngồi trong căn phòng, gương mặt thẫn thờ khi biết đứa con trai mình thương yêu đã thuộc về một cuộc sống khác, một không gian khác. Chỉ cần một âm thanh kéo dài qua các khuôn hình, không cần thêm một lời thoại, một hành động hay một sự tương tác nào giữa các nhân vật, nhưng cảm xúc bên trong lại được bộc lộ một cách ấn tượng, tạo ra sự tự lan truyền những rung động cảm giác bằng ngôn ngữ riêng của hình ảnh và âm thanh. Sự tinh tế của chi tiết Như ở trên đã phân tích, cái lõi của Chơi vơi không phải là cốt truyện, là tình huống mà là một thế giới nghệ thuật của chi tiết. Những chi tiết được nhào nặn và chắt lọc từ chất liệu cuộc sống đời thường và tái hiện lại hiện thực đời sống riêng tư với những ẩn ức tinh thần dữ dội và sâu kín của con người, đặc biệt là con người thời tuổi trẻ. Mỗi người trẻ soi vào đấy lại chạm mặt một khoảnh khắc, một lát cắt, một kỉ niệm, một nỗi rung động thuộc về chính con người mình.
Chuyến đi là một chi tiết tinh tế như thế. Từng con người trẻ và từng trẻ, bao giờ cũng có những biến động cảm xúc và sự trải nghiệm đời sống qua những chuyến đi. Đi để gặp gỡ, để va chạm, để khám phá và thấy một bản – thể – mình – khác giữa thế giới con người. Đi để trở về và thay đổi những suy tư và cảm nghiệm về đời sống. Chuyến đi của Duyên khơi thức kí ức về những chuyến đi như thế của những ai còn trẻ và đã từng trẻ. Vì vậy, đây không chỉ đơn giản là một chi tiết tạo tình huống, thay đổi mối quan hệ giữa Duyên và Thổ mà còn là một chi tiết đầy tính triết lý, đầy tính chiêm nghiệm về hành trình đời sống của thời thanh xuân. Ở một không gian khác, con người luôn tự do với chính mình, cởi bỏ những ràng buộc đã canh định thành khuôn thước, thành các thành vách, rào chắn của sự quen thuộc, ổn định. Sau chuyến đi, Duyên trở về và vĩnh viễn đổi khác, rời rã hơn, trầm lắng hơn nhưng cũng sống thực với chính con người mình hơn, và vì vậy, con người trẻ này cũng chơi vơi hơn giữa thế giới hỗn độn xúc cảm, những giằng co giữa hành vi sống theo sự thúc giục của bản năng cảm xúc và những khuôn thước xã hội truyền thống đã in hằn trong tâm thức.
Chi tiết không chỉ thể hiện ở việc xây dựng thế giới câu chuyện, thế giới chuyện kể mà còn là chi tiết tinh tế của thiết kế bối cảnh, của đạo cụ, của góc quay, của ánh sáng… Có thể nói, Chơi vơi được chăm chút một cách kĩ lưỡng, chu đáo trên từng phương diện nghệ thuật như thế trong hình hài của một cốt truyện lỏng lẻo. Chi tiết không dày đặc mà đậm đặc tính biểu hiện, tính xúc cảm. Góc máy từ trên cao tái hiện gương mặt cô bé Miên khi mơ màng và ước ao về cái vòi tắm hoa sen đã truyền động một niềm rung cảm về sự hồn nhiên, trong trẻo cùng nỗi khao khát nhỏ bé nhưng rất đáng trân trọng của đưá trẻ con. Máy quay nằm phía sau thể hiện hình ảnh con gấu bông to đùng đang công kênh trên vai Miên trong xe taxi mang lại một góc máy thể hiện cái nhìn hài hước hồn hậu, nhiều âu yếm và sẻ chia về một thế giới trẻ thơ luôn gắn bó với những con thú nhồi bông ngộ nghĩnh. Những chi tiết nghệ thuật ấy không chỉ cho thấy hiện thực mà còn cảm thấy một thế giới xúc cảm tinh tế, rất riêng tư nhưng cũng vô cùng gần gụi giữa đời thường vẫn ngày ngày xoay chuyển trong mỗi con người, cạnh mỗi con người.
Cuối cùng, cái kết của bộ phim tạo ra cấu trúc lặp lại – tăng tiến tái diễn cảnh quay
Duyên và Hải trên chiếc taxi trở về nhà, đi qua con đường ngập nước mưa với tâm trạng lo âu, nôn nao, gợi nhắc đến cảnh Hải chở Duyên về căn phòng của đôi vợ chồng sau đêm tân hôn. Hai nhân vật lại được đặt trong cùng một không gian, nhưng tâm thế đã dịch chuyển và thay đổi. Duyên đã đi qua một sự trải nghiệm, mang trên gương mặt những nét vẻ đàn bà nhiều khắc khoải và từng trải hơn chứ không còn cái e ấp, ngượng nghịu trong nụ cười như ngày đầu. Chiếc xe đi bập bềnh trong nước như chính tâm trạng chơi vơi, bất định của từng nhân vật, đặc biệt là nỗi chơi vơi trong Duyên. Trận lụt lịch sử của Hà Nội vào đầu mùa đông năm 2008 đã thành một duyên may cho bối cảnh của Chơi vơi. Hình ảnh nước ngập mênh mang và những dòng xe tắc ứ, chuyển động trong âu lo phập phồng đã đẩy cảm giác chơi vơi, hoang mang lên sắc thái mạnh mẽ hơn so với bối cảnh cơn mưa trong kịch bản ban đầu. Và trường đoạn với các cảnh rời đi qua từng nhân vật trước đấy không tạo ra cái kết cho các nhân vật trong phim. Thổ dắt tay đưá con của Vy trên phố, Duyên run rẩy và đam mê trong vòng tay Thổ trên cầu thang thẳng đứng, u tối, Miên quay về với chiếc bồn tắm của mình và giữ giấc mơ đơn giản của cô bé… Diễn trình đời sống của từng con người vẫn đang tiếp tục, chỉ có những thước phim là chấm dứt và kết thúc.
Và có một trạng thái chơi vơi vẫn đang tiếp tục, mỗi lúc một đậm đặc, đầy ám ảnh chảy miên man trong đời sống của những con người trẻ, của những con người đang sống.
CHƠI VƠI
Đạo diễn: Bùi Thạc Chuyên
Biên kịch: Phan Đăng Di
Diễn viên: Đỗ Hải Yến, Phạm Linh Đan, Johnny Trí Nguyễn, Duy Khoa, Linh Dung, Như Quỳnh…
Thời lượng: 111 phút
Thời gian phát hành: 2009.
Giải thưởng: Giải FIPRESCI tại Liên hoan phim Vernice lần thứ 66.
Bài viết rất có đầu tư và chất lượng. Nhưng bẹn để ý một chút nhé “Mùa hè chiều thẳng đứng” chứ không phải “Tia nắng chiều thẳng đứng” của Trần Anh Hùng. Chúc bạn có những bài viết tốt như thế này.
md said this on December 6, 2009 at 10:46 am
Bài viết rất có đầu tư và chất lượng. Nhưng bạn để ý một chút nhé “Mùa hè chiều thẳng đứng” chứ không phải “Tia nắng chiều thẳng đứng” của Trần Anh Hùng. Chúc bạn có những bài viết tốt như thế này.
md said this on December 6, 2009 at 10:46 am
Cám ơn bạn nhiều lắm vì đã đọc cái bài dài ngoằng của mình và đã chỉ ra cái lỗi sai to đùng này. Ui trời, đúng là giật mình vì thấy hình như lúc viết đầu mình có vấn đề (hì hì), chắc là trong một trạng thái rất chi không bình thường nên mới chế ra cái tên phim của Trần Anh Hùng như thế này. Phải xin lỗi cả đạo diễn Trần Anh Hùng nữa nhỉ! Cám ơn nhiều nhé!
nguoinghintrung said this on December 6, 2009 at 4:16 pm
this site has a format and you must follow the format … if you don’t understand how to post in the correct format you need to ask somebody who does … please do not abuse the opportunity to post here … it took me over four hours to fix this post, and it still has problems … next time i might not be so kind … paragraphs composed of 800 to 1000 words are not appropriate online, and there is no photographer or publishing company or studio or marketing company called “the internet” so you simply cannot attribute the ownership of photographs to “the internet” … you need to make your work more approachable by upholding common sense rules of style and staying with the format we established three years ago in the research lab … beyond those points, it’s nice to see something substantial written about this truly remarkable film
maximumeskimo said this on December 6, 2009 at 4:27 pm
Cám ơn thầy Dean nhiều lắm ạ! Thank thay Dean a lot! I’m so sorry because I really do not know how to make this post in the correct format and waste your time. I will ask my classmates to know more. Once again, I’m so sorry. I’ll try my best in the next post.
nguoinghintrung said this on December 6, 2009 at 4:44 pm
you’re very welcome van … khong co gi … we’re happy to see your writing … so thank you too
maximumeskimo said this on December 6, 2009 at 7:13 pm
Mình biết bác phong sinh từ emphasi , vào blog của bác đúng là hào hứng thiệt, bài viết rất hay ….
thiên thần said this on December 21, 2009 at 2:47 pm
Hu hu, sao bạn thiên thần vào bài viết của mình lại khen blog của anh phóng sinh hay… Làm mình mừng hụt. Hic!
nguoinghintrung said this on December 27, 2009 at 8:35 am